Tin ngành Điện

Phát triển thủy điện ở Lâm Đồng trong giai đoạn hiện nay

Thứ năm, 6/2/2014 | 15:59 GMT+7
Tiềm năng thủy điện của tỉnh Lâm Đồng


    Là tỉnh thuộc Nam Tây Nguyên, có vị trí địa lý thuận lợi trong giao lưu phát triển kinh tế - xã hội, Lâm Đồng còn đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ hệ sinh thái rừng đầu nguồn.
 

Do đặc điểm vị trí địa lý, Lâm Đồng có 7 hệ thống sông lớn chảy trong địa bàn là sông Đa Dâng, Đa Nhim, Krông Nô, Đạ Huoai, La Ngà, Đồng Nai, Lũy. Ngoài những con sông chính nêu trên, Lâm Đồng còn có hàng ngàn con suối nhỏ phân bổ khắp trên toàn tỉnh. Với những thuận lợi đó, cộng với lượng mưa khá lớn so với khu vực lân cận (lượng mưa trung bình nhiều năm lên tới khoảng 2.800 mm), tạo cho tỉnh Lâm Đồng có tiềm năng dồi dào để phát triển thủy điện. Thực tế những năm qua, lợi thế này đã được tỉnh khai thác tương đối tốt và sẽ còn được phát huy trong thời gian 10 - 15 năm tới.
 

Theo phê duyệt quy hoạch phát triển điện lực quốc gia trên địa bàn tỉnh của 3 hệ thống sông lớn như: Đa Nhim, Đồng Nai và La Ngà, có khoảng 10 dự án thủy điện lớn, với tổng công suất lắp máy khoảng 2.000 MW, tổng sản lượng điện khoảng 6 tỷ kWh cụ thể như sau:

- Hệ thống sông Đa Nhim: có 02 công trình thủy điện với tổng công suất 460 MW, trong đó: Đa Nhim (160 MW), Đại Ninh (300 MW).

- Hệ thống sông Đồng Nai: có 06 công trình thủy điện với tổng công suất 981 MW, trong đó: Đồng Nai 2 (70 MW), Đồng Nai 3 (180 MW), Đồng Nai 4 (340 MW), Đồng Nai 5 (150 MW), Đồng Nai 6 (135 MW) và Đồng Nai 6A (106 MW).

- Hệ thống sông La Ngà: có 02 công trình thủy điện với tổng công suất 475 MW, trong đó: Hàm Thuận (300 MW), Đa Mi (175 MW).
 

Ngoài các dự án lớn nêu trên, Lâm Đồng còn có tiềm năng phát triển thủy điện vừa và nhỏ khá phong phú. Theo quy hoạch phê duyệt của Bộ Công thương và Ủy ban nhân dân tỉnh, địa bàn tỉnh Lâm Đồng có 68 dự án thủy điện vừa và nhỏ, trên 08 lưu vực sông như: Đa Dâng, Đa Nhim, Krông Nô, Đạ Huoai, La Ngà, Đồng Nai, sông Lũy và sông Quao, tổng công suất lắp máy khoảng trên 430 MW, với tổng sản lượng điện khoảng trên 2 tỷ kWh. Ngoài việc phê duyệt quy hoạch nêu trên, trên nhánh sông Krông Nô (hệ thống sông Srêpốk), Bộ Công thương phê duyệt 2 dự án thủy điện Krông Nô 2 và 3 giáp ranh giữa tỉnh Lâm Đồng - Đắc Lắc có tổng công suất lắp máy khoảng 36 MW, với sản lượng điện khoảng trên 151 triệu kWh và các dự án thủy điện trên hệ thống sông Đồng Nai.
 

Hiện tại, ngành điện của tỉnh chỉ mới khai thác được các nhà máy thủy điện lớn như: Đa Nhim, Hàm Thuận, Đa Mi, Đại Ninh và các dự án thủy điện đang triển khai thi công như: Đồng Nai 2, Đồng Nai 3, Đồng Nai 4; đang triển khai công tác giải phóng mặt bằng thủy điện Đồng Nai 5 và đang nghiên cứu khảo sát, hoàn thành các thủ tục liên quan, lập dự án đầu tư thủy điện Đồng Nai 6 và 6A.
 

Hiệu quả của việc phát triển thủy điện ở Lâm Đồng
 

Theo quy hoạch thủy điện nhỏ được phê duyệt, Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã thỏa thuận địa điểm đầu tư với tổng số là trên 44 dự án, trong đó 26 dự án do Bộ Công thương phê duyệt và 18 dự án do Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng phê duyệt. Tính đến cuối năm 2010 đã hoàn thành đưa vào sử dụng phát điện thương mại 06 dự án thủy điện, với tổng công suất lắp máy khoảng 92 MW, tổng sản lượng điện sản xuất khoảng trên 430 triệu kWh như: Bảo Lộc (24,5 MW), Đa Siat (13,5 MW), Đa Khai (8,1 MW), Văn Minh - Đa Dâng 2 (34 MW), Đam Bor - Đạ Tẻh (9,6 MW) và Tà Nung (2 MW) và dự kiến đến cuối năm 2011 đưa vào sử dụng phát điện thương mại 03 dự án thủy điện, với tổng công suất lắp máy khoảng 31 MW như: Đa Kai (6 MW), Đak Mé (5,5 MW) và Yan Tann Sienn (19,5 MW), đang triển khai thi công trên 15 dự án và dự kiến hoàn thành trong giai đoạn 2011-2015, với công suất lắp máy khoảng 276 MW và góp phần đưa sản lượng điện sản xuất trên địa bàn tỉnh tăng thêm khoảng 1,2 tỷ kWh. Sau khi các dự án thủy điện hoàn thành góp phần cho phát triển công nghiệp về sản lượng điện sản xuất trên địa bàn tỉnh khoảng 7,2 tỷ kWh/năm, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
 

Theo dự báo trong quy hoạch điện, nhu cầu điện toàn quốc sẽ tăng bình quân từ 14% đến hơn 16%/năm trong giai đoạn 2011-2015, khoảng 11,5%/năm trong giai đoạn 2016-2020 và khoảng 7,4% đến 8,4%/năm trong giai đoạn 2021-2025. Nhu cầu điện cho sản xuất dự kiến đến 2015 là 194 - 211 tỷ kWh, đến năm 2020 là 329 - 362 tỷ kWh. Hiện tại, Việt Nam đang phải nhập khẩu điện từ Trung Quốc.

Dự báo đến năm 2020, Việt Nam vẫn còn thiếu điện và Chính phủ chủ trương ưu tiên phát triển các dạng năng lượng tái tạo cho sản xuất điện có chi phí thấp như: phát triển thủy điện vừa và nhỏ có quy mô hợp lý (thủy điện vừa và nhỏ chiếm trên 92,6% năng lượng tái tạo); sử dụng nhiệt từ năng lượng tái tạo; năng lượng sinh học và ưu tiên cho các dự án điện độc lập ngoài lưới, gắn với điện khí hoá nông thôn tại các vùng sâu, vùng xa. Chú trọng phát triển năng lượng tái tạo cho những nơi có chi phí thấp hơn so với điện điêzel hoặc kéo điện lưới quốc gia. Phát triển và sử dụng nguồn năng lượng tái tạo mà nước ta có tiềm năng, có ưu tiên và hỗ trợ theo vùng địa lý và dân cư. Lâm Đồng là một trong những tỉnh có tiềm năng về năng lượng tái tạo như: thủy điện nhỏ và năng lượng gió.

 Nhìn chung các dự án thủy điện đã đưa vào hoạt động và đang triển khai thi công xây dựng trên địa bàn tỉnh đem lại lợi ích cho nhà đầu tư và đóng góp quan trọng vào việc cung cấp điện phục vụ hoạt động sản xuất, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói chung, gia tăng giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng nói riêng; tạo thêm nhiều việc làm cho lao động địa phương, đồng thời giải quyết tình trạng thiếu hụt điện như hiện nay.
 

Trong những năm qua, sản lượng điện được sản xuất đạt 4,2 tỷ kWh/năm, doanh thu từ bán điện khoảng 2.476 tỷ đồng, đóng góp vào ngân sách nhà nước khoảng 200 tỷ đồng mỗi năm.

Thời gian tới, trên cơ sở quy hoạch thủy điện của tỉnh đến năm 2015, tổng công suất điện trên địa bàn toàn tỉnh vào khoảng 1.800 MW, sản lượng điện sản xuất dự kiến khoảng trên 7,7 tỷ kWh/năm, doanh thu bán điện khoảng 4.700 tỷ đồng, ước tính đóng góp vào ngân sách nhà nước khoảng 380 tỷ đồng mỗi năm.
 

Ngoài hiệu quả về kinh tế, các dự án thủy điện còn có tác động tích cực, duy trì sự cân bằng về môi trường sinh thái; tăng cường nguồn nước tưới phục vụ sản xuất nông nghiệp; tạo điều kiện phát triển nuôi trồng thủy sản, du lịch sinh thái. Đồng thời, các công trình hạ tầng kỹ thuật giao thông, điện,… từ các dự án thủy điện được đầu tư cũng góp phần phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân ở vùng dự án.

Mặt khác, khi xây dựng các dự án thủy điện sẽ tạo thêm các hồ chứa, góp phần quan trọng trong việc trữ và điều hòa nước phục vụ nhu cầu tưới tiêu, đặc biệt là các tháng mùa khô.
 

Một số đề xuất quản lý trong thời gian tới
 

- Cơ quan quản lý cần đôn đốc, đẩy nhanh tiến độ các dự án thủy điện nhỏ đang được triển khai; hỗ trợ chủ đầu tư đưa vào vận hành các dự án thủy điện như Đồng Nai 2, Đồng Nai 4, Đambri, Đồng Nai 5 và chuẩn bị đầu tư đối với các dự án Đồng Nai 6 và 6A; tăng cường thu hút các dự án đầu tư năng lượng tái tạo tại địa phương.
 

- Cần có sự phối hợp với các địa phương để hỗ trợ cho nhà đầu tư trong công tác giải phóng mặt bằng và đền bù giải tỏa vùng triển khai dự án.
 

- Tăng cường công tác kiểm tra nhằm giúp đỡ, hướng dẫn và kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện để dự án triển khai đúng tiến độ đề ra, mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất.