
Ảnh: Ngọc Hà/Icon.com.vn
Hiện nay, trên cả nước có 385 nhà máy thủy điện đang hoạt động, với tổng dung tích hồ chứa khoảng 56 tỷ m3 nước, chiếm 86% tổng dung tích hồ chứa trên cả nước… Tuy nhiên, bên cạnh những đó là nỗi lo về an toàn các đập thủy điện mỗi khi mùa mưa bão về. Bất cứ một sự việc nào cũng có hai mặt của một vấn đề. Các hồ chứa nước thủy điện cũng không nằm ngoài triết lý này. Nếu có bất kỳ một sự cố nào về đập sẽ là hiểm họa khôn lường, không chỉ đối với an toàn của người dân vùng hạ du mà còn thiệt hại rất lớn về tài sản quốc gia với nhiều công trình hạ tầng khác ở phía hạ du bị tàn phá, là giá trị công trình điện đã được xây dựng và gây ra sự thiếu hụt về công suất hệ thống …
Được tính toán từ quy hoạch
Có lẽ không ít người biết đến sự cố vỡ đập Bản Kiều (Trung Quốc) năm 1975 đã trở thành thảm họa đại hồng thủy lớn nhất trong lịch sử nhân loại khi có tới 175.000 người thiệt mạng và hơn 11 triệu người khác mất nhà cửa. Đập Kelly Barnes (Mỹ) vỡ năm 1977 làm 39 người thiệt mạng và thiệt hại về tài sản lên đến 3,8 triệu USD. Đập hồ Lawn (Mỹ) bị sập vào năm 1982 với lượng nước tràn ra lên đến 830.000 m3 làm thiệt hại kinh tế lên đến 31 triệu USD. Trước đó, đập Gleno (Italia) vỡ vào năm 1923 làm 356 người thiệt mạng. Thống kê cho thấy trên thế giới, trung bình cứ 100 đập thì có 1 đập bị sự cố, ngay cả ở các nước tiên tiến. Điều này chứng tỏ thủy điện luôn tiềm ẩn nguy cơ rủi ro.
Hiểu được điều này nên các quốc gia có thủy điện đều rất chú trọng qui trình quản lý an toàn đập. Có nhiều tiêu chí để chọn địa điểm xây đập như tuyến, nền đập, khả năng tích của bụng hồ chứa… Để đảm bảo an toàn, tiêu chí đầu tiên là nền đập tốt, có nghĩa là không có đứt gãy đang hoạt động. Theo tổng kết 500 công trình bị hư hỏng của Hội đập lớn thế giới (ICOLD), gần 70% vụ vỡ đập là do nền đập.
Để đảm bảo an toàn các công trình thủy điện, Chính phủ cùng với các bộ, ngành, địa phương tính toán an toàn đập từ khi thực hiện Quy hoạch và thực hiện giám sát, kiểm tra chặt chẽ chất lượng công trình thủy điện ngay từ giai đoạn xây dựng. Đây được coi là khâu hết sức quan trọng. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật và tổ chức giám sát, kiểm tra nghiêm ngặt các dự án xây dựng thủy điện từ khâu khảo sát, thiết kế, thi công, nghiệm thu, quản lý an toàn đến giải quyết sự cố thi công và cam kết về môi trường; cho ý kiến vào việc điều chỉnh quy mô, thay đổi thiết kế bản vẽ kỹ thuật thi công so với hồ sơ thiết kế dự án...
Đơn cử như sông Đà – con sông lớn nhất miền Bắc Việt Nam được đánh giá là có tiềm năng kinh tế lớn, cũng là con sông gây ra lũ lụt lớn nhất. Chỉ riêng về mặt năng lượng của dòng chính và các nhánh chủ yếu trữ năng kinh tế, chưa tính các thủy điện nhỏ (công suất đặt nhỏ hơn 30 MW) thực tế đã và đang khai thác sản lượng điện 27,6 tỷ kWh với 6.778 MW công suất đặt, chiếm gần 50% trữ năng kinh tế thủy điện cả nước.
Theo thống kê trên một trăm năm quan trắc, sông Đà chiếm 42% – 78% lượng lũ sông Hồng tại tuyến Sơn Tây, là một trong những nguyên nhân làm vỡ đê, gây ngập lụt nghiêm trọng đồng bằng Bắc Bộ năm 1945 và năm 1971.
Nhận rõ vị trí quan trọng của sông Hồng nói chung và sông Đà nói riêng đối với việc phát triển kinh tế - xã hội, trong tình hình còn nhiều việc phải làm sau giải phóng miền Bắc, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ đã thành lập Ủy ban Khai thác và Trị thủy sông Hồng. Từ năm 1960-1970, Văn phòng Ủy ban đã tổ chức nghiên cứu quy hoạch khai thác và trị thủy sông Hồng, trong đó đã đặc biệt lưu ý việc quy hoạch bậc thang thủy điện sông Đà. Theo đó, đã xác định 4 nhiệm vụ cơ bản của bậc thang thủy điện sông Đà: Khai thác nguồn thủy năng tái tạo để phục vụ phát triển kinh tế xã hội; chống lũ lụt đồng bằng Bắc Bộ trong đó có thủ đô Hà Nội; cung cấp nước ngọt cho công nghiệp, nông nghiệp và nhu cầu dân sinh; cải tạo hệ thống giao thông thủy ở hạ lưu và phát triển hệ thống giao thông thủy ở thượng lưu.
Năm 1978, Bộ Trưởng Bộ Điện và Than được thừa ủy quyền của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng phê duyệt cùng với thiết kế kỹ thuật xây dựng Thủy điện Hòa Bình- bậc thang thứ nhất của Thủy điện sông Đà xây dựng trước ở bậc thang cuối cùng với mực nước dâng bình thường (MNDBT) 215m.
Đối với công trình Thủy điện Sơn La là bậc thang có vai trò quan trọng, Quốc hội yêu cầu phải đảm bảo an toàn tuyệt đối cho công trình và cho hạ du (“An toàn tuyệt đối” ở đây được hiểu là phải đảm bảo thiết kế và xây dựng công trình theo tiêu chuẩn thiết kế an toàn nhất). Qua nghiên cứu, tính toán, Tư vấn thiết kế đi đến kết luận: Hiệu quả kinh tế của bậc thang phụ thuộc rất lớn vào quy mô mức nước dâng của hồ chứa Thủy điện Sơn La. Mực nước dâng hồ Sơn La càng cao, hiệu quả kinh tế bậc thang càng lớn. Sau nhiều hội thảo và các cuộc thẩm định đã đưa hai phương án bậc thang để trình xét chọn là: Phương án Sơn La cao MNDBT 265m và phương án Sơn La thấp MNDBT 215m.
Nếu xét về hiệu quả kinh tế tổng hợp thì chọn phương án bậc thang Sơn La cao, nhưng Quốc hội và Chính phủ cho rằng, cần đặt tiêu chí đảm bảo an toàn hạ du lên tầm quan trọng số 1, nên đã quyết định thực hiện phương án bậc thang Sơn La thấp, gồm 5 thủy điện: Lai Châu, Sơn La và Hòa Bình trên dòng chính; Huội Quảng và Bản Chát trên nhánh Nậm Mu.
Nhiệm vụ phòng lũ cho hạ du, cũng đã được nghiên cứu khá công phu và thận trọng. Hai phương án tiêu chuẩn phòng lũ được xem xét: Chống lũ sông Hồng tần suất 500 và chống lũ tần suất 1000 năm xuất hiện một lần tại tuyến Sơn Tây, đảm bảo mức nước tại Hà Nội không vượt 13,3m, đảm bảo không bị vỡ đê với điều kiện đê điều phải được quản lý nghiêm túc, kiểm tra và sửa chữa thường xuyên theo luật định. Qua nghiên cứu, tính toán cho thấy, khi chưa có các hồ chứa Sơn La và Tuyên Quang, 2 hồ chứa Hòa Bình và Thác Bà chỉ đảm bảo chống lũ tần suất 300 năm và chỉ khi có hồ chứa Sơn La với dung tích phòng lũ 2 hồ Hòa Bình và Sơn La 7 tỷ m³ (Sơn La 4 tỷ m³; Hòa Bình 3 tỷ m³) thì mới đảm bảo chống lũ tần suất 500 năm xuất hiện một lần tại tuyến Sơn Tây.
Qua cân nhắc giữa thiệt hại về điện năng khi tăng dung tích phòng lũ và lợi ích phòng lũ đưa lại khi tăng tần suất chống lũ đã quyết định, tiêu chuẩn phòng lũ cho đồng bằng Bắc Bộ là 500 năm xuất hiện một lần. Việc hoàn thành xây dựng hồ chứa Sơn La (năm 2011) và hồ chứa Tuyên Quang (năm 2009) đã đánh dấu một sự kiện quan trọng: Bắt đầu từ mùa lũ năm 2012, chính thức thực hiện Quy trình điều tiết liên hồ chứa Hòa Bình - Sơn La – Tuyên Quang và Thác Bà chống lũ cho đồng bằng Bắc bộ (Quyết định số 198/QĐ-TTg ngày 10-12-2011). Nhiệm vụ điều tiết nước, cấp nước cho đồng bằng Bắc bộ vào mùa kiệt được coi như cơ bản đã thực hiện theo quy hoạch bậc thang được duyệt. Tổng dung tích hữu ích (dung tích điều tiết) của các hồ lớn đã xây dựng đến năm 2012: Hòa Bình, Sơn La, Bản Chát và Nậm Chiến là 13.806.106m³ đã vượt 2.252 tỷ m³ (gần 20%) so với tổng dung tích hữu ích các hồ bậc thang được duyệt.
Thực tế công trình đã được tính toán đảm bảo tính an toàn, ổn định với động đất cấp IX (MSK) và lũ cự hạn PMF thỏa mãn hai tiêu chuẩn nói trên. Đã kiểm tra trường hợp vỡ đập Sơn La mà nước không tràn qua đỉnh gây vỡ đập Hòa Bình. Trong trường hợp đó chỉ cần chú ý điều tiết mức nước hồ Hòa Bình trong tháng 10 hàng năm không được vượt mức 113 m. Lòng hồ Sơn La dành 3 tỷ m³ trên MNDBT để đủ chứa phòng khi vỡ đập Lai Châu (1,3 tỷ m³) và các đập đã có ở thượng nguồn tuyến Lai Châu (1,7 tỷ m³). Bản thân đập Sơn La, Hòa Bình và Lai Châu đều có công trình xả sâu phòng trường hợp có tình hình căng thẳng sẽ hạ mực nước hồ chứa. Đến cuối năm 2012 có thể kết luận rằng, khai thác các bậc thang thủy điện sông Đà đã đạt mục tiêu đề ra.Có thể nói rằng, đây là kết quả thể hiện tính nghiêm túc trong giai đoạn quy hoạch, nghiên cứu, thiết kế kỹ thuật các dự án thủy điện.
Nỗi lo từ thủy điện nhỏ

Thủy điện Lai Châu. Ảnh: Ngọc Hà/Icon.com.vn Theo số liệu từ Bộ Công Thương, trong tổng số 824 dự án thủy điện ở Việt Nam thì có tới 714 nằm trong quy hoạch là các dự án thủy điện nhỏ có công suất lắp máy từ 1-30 MW, trong đó đã vận hành khai thác hơn 270 dự án, đóng góp khoảng 5,4% sản lượng điện cho hệ thống điện quốc gia. Theo quy hoạch,các dự án thủy điện nhỏ chiếm 86,6% tổng số các dự án và 29,2% tổng công suất thủy điện ở Việt Nam. Tuy nhiên dường như các dự án thủy điện nhỏ đang trở thành con dao hai lưỡi.
Chỉ trong vòng thời gian rất ngắn, từ tháng 10-2012 đến tháng 6-2013 đã có 3 vụ vỡ đập thủy điện nhỏ: thủy điện Đắk Krông 3 (Quảng Trị), Đăk Mêk 3 (Kon Tum) và Ia Krel 2 (Gia Lai). Một số sự cố tràn đập Hố Hô (Hà Tĩnh) hay vụ vỡ đường ống áp lực công trình thủy điện Đăm Bol - Đạ Tẻh (Lâm Đồng).
Theo Bộ Xây dựng, nhiều chủ đầu tư do thiếu kinh nghiệm, thiếu cán bộ chuyên môn hoặc do lợi ích của doanh nghiệp (tiết kiệm chi phí trong khảo sát, lập thiết kế, thẩm định, ...) nên việc quản lý chất lượng thiết kế công trình xây dựng chưa tuân thủ đầy đủ quy định hiện hành. Thậm chí, chủ đầu tư còn tự thay đổi thiết kế, không tuân thủ quy định về quản lý chất lượng công trình gây hậu quả nghiêm trọng như trường hợp Thủy điện Đăm Bol – Đạ Tẻl (Lâm Đồng) và Thủy điện Đăk Mêk 3 (Kon Tum).
Với các công trình thủy điện, công tác quan trắc là một phần việc rất quan trọng nhưng đối với các công trình thủy điện nhỏ ít được chủ đầu tư quan tâm, nếu không muốn nói là lơ là. Công tác vận hành khai thác, bảo trì theo quy định chưa được các chủ đầu tư, chủ quản lý sử dụng thực hiện nghiêm túc, nhất là với công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngoài ngân sách. Thậm chí, nhiều chủ đầu tư còn chưa tổ chức lập quy trình bảo trì công trình. Thêm vào đó, việc phối hợp kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng và ngành liên quan ở một số địa phương chưa chặt chẽ, chưa thường xuyên.
Theo Bộ Xây dựng, vẫn còn nhiều chủ đập chưa thực hiện việc đăng ký an toàn đập; chưa thực hiện việc kiểm tra, chứng nhận bảo đảm chất lượng xây dựng đập; chưa kiểm định an toàn đập theo định kỳ; chưa phê duyệt Phương án phòng chống lũ lụt vùng hạ du đập; chưa có phương án phòng chống lụt bão bảo đảm an toàn đập được phê duyệt; chưa có phương án bảo vệ đập được duyệt; hồ chưa có quy trình vận hành điều tiết nước hồ chứa. Thực tế này đã tiềm ẩn nguy cơ sự cố tại nhóm công trình thủy điện vừa và nhỏ.
Trong bối cảnh các nguồn năng lượng hóa thạch đang cạn kiệt và giá cả tăng lên hàng ngày, đặc biệt là đối với Việt Nam đã dừng xây dựng nhà máy điện nguyên tử thì việc khai thác các nguồn nước trên các lưu vực sông để phát điện là hết sức cần thiết để giảm lệ thuộc vào năng lượng nhập khẩu và ổn định sản xuất cho nền kinh tế. Các thủy điện lớn (trên 30MW) gần như đã được khai thác hết, hiện nay chỉ còn có thể khai thác thủy điện vừa và nhỏ. Nên vấn đề đặt ra là phải có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ từ các cơ quan chức năng có thẩm quyền trong quản lý và xây dựng thủy điện nhỏ.
Rõ ràng các công trình thủy điện lớn đã được các cơ quan quản lý và chủ đập quan tâm công tác an toàn từ khâu quy hoạch, chất lượng công trình cho đến quản lý vận hành nên gần như không xảy ra sự cố nào về công trình cũng như an toàn đập. Điều đó có thể thấy, đối với thủy điện nhỏ đã bị buông lỏng. Khi các cơ quan quản lý nhà nước buông lỏng thì xảy tình trạng các chủ đập thủy điện nhỏ cập nhật chưa thực hiện đầy đủ quy định về quản lý an toàn đập là điều khó tránh khỏi. Chưa kể đến những bất cập trong các văn bản quy phạm pháp luật.
Với con số chiếm 86,6% dự án thủy điện nhỏ trong tổng số các dự án thủy điện đã được duyệt trong quy hoạch sẽ là áp lực rất lớn về an toàn đập, nhất là đối với các công trình thủy điện nhỏ hầu hết không có hồ chứa nước, nếu có thì dung tích chứa nước cũng rất nhỏ, không có khả năng hạn chế, càng không có khả năng cắt lũ. Với đặc điểm này của công trình thủy điện nhỏ, vấn đề an toàn đập phải được quan tâm hơn trong bối cảnh biến đổi khí hậu, cực đoan của thời tiết hiện nay. Vì vậy, các cơ quan quản lý Nhà nước phải tăng cường quản lý thủy điện nhỏ từ khâu quy hoạch, chất lượng xây dựng công trình đến việc thanh tra, kiểm tra việc thực hiện đầy đủ các quy định về quản lý an toàn, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quy định về quản lý an toàn đập thì cần khẩn trương rà soát, sửa đổi những nội dung còn bất cập và các văn bản liên quan.